Authors: | Diệu Thanh Đỗ Thị Bình |
Keywords: | Phật giáo;Tạo duyên |
Issue Date: | 2014 |
Publisher: | Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam |
Description: | Tạp chí nghiên cứu phật học số tháng 1/2014 ; 1 tr. ; TNS08773 |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55288 |
Appears in Collections: | Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC) |
Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017
Hãy tạo duyên phật pháp cho thế hệ trẻ
Mùa xuân di lặc
Authors: | Thiện Bảo |
Keywords: | Phật giáo;Di lặc |
Issue Date: | 2014 |
Publisher: | Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam |
Description: | Tạp chí nghiên cứu phật học số tháng 1/2014 ; 4 tr. ; TNS08774 |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55289 |
Appears in Collections: | Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC) |
Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2017
Thiền sư Nguyễn Minh Không và một số lễ hội Phật giáo tiêu biểu ở miền Bắc
Authors: | Trần Mạnh Quang |
Keywords: | Phật giáo;Lễ hội Phật giáo |
Issue Date: | 2014 |
Publisher: | Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam |
Description: | Tạp chí nghiên cứu phật học số 4/2014 ; 5 tr. ; TNS08803 |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55319 |
Appears in Collections: | Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC) |
Rồng thời Lý và biểu tượng Phật giáo
Authors: | Lý Viết Trường |
Keywords: | Phật giáo;Biểu tượng Phật giáo |
Issue Date: | 2014 |
Publisher: | Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam |
Description: | Tạp chí nghiên cứu phật học số 4/2014 ; 4 tr. ; TNS08805 |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55321 |
Appears in Collections: | Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC) |
Thứ Sáu, 28 tháng 7, 2017
Hãy nói lời yêu khi chưa quá muộn
Authors: | Diệu Bình |
Keywords: | Phật giáo |
Issue Date: | 2012 |
Publisher: | Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam |
Description: | Tạp chí Nghiên cứu Phật học. Số 5. Năm 2012. TNS07755 |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55270 |
Appears in Collections: | Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC) |
Thân người khó được Phật pháp khó nghe
Authors: | Minh Thiện |
Keywords: | Giáo lý;Phật giáo |
Issue Date: | 2012 |
Publisher: | Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam |
Description: | Tạp chí Nghiên cứu Phật học. Số 5. Năm 2012. TNS07756 |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55271 |
Appears in Collections: | Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC) |
Thứ Tư, 26 tháng 7, 2017
Vấn đề nguồn nhân lực nữ nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông nghiệp nông thôn Hà Nam hiện nay
Authors:
Nguyễn, Thị Nga | |
Keywords: | Phụ nữ Nông thôn Nguồn nhân lực Hà Nam |
Issue Date: | 2009 |
Publisher: | Đại học quốc gia Hà Nội |
Abstract: | Trình bày cơ sở lý luận về nguồn nhân lực nữ nông thôn với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn Hà Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Nghiên cứu đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hà Nam, làm rõ vai trò của nguồn nhân lực nữ nông thôn với tư cách là một trong những nguồn nhân lực quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn tỉnh Hà Nam. Chỉ ra những nhân tố tác động đến nguồn nhân lực nữ nông thôn Hà Nam hiện nay. Phân tích thực trạng nguồn nhân lực nữ và việc phát huy nguồn nhân lực nữ nông thôn trong sự nghiệp CNH, HĐH, nông nghiệp và nông thôn ở tỉnh Hà Nam. Trình bày một số quan điểm đinh hướng và đề xuất các giải pháp sau: Đẩy mạnh giải quyết việc làm cho lao động nữ nông thôn thông qua việc tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH nhằm khai thác một cách hiệu quả, hợp lý nguồn nhân lực nông thôn; Tăng cường công tác giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ nông thôn đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH, nông thôn Hà Nam trong giai đoạn tới |
Description: | 118 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/23701 |
Thứ Hai, 24 tháng 7, 2017
Lịch sử múa rối nước Việt Nam
Hầu hết các nước trên thế giới đều có múa rối. Việt Nam, múa rối là một
trong những loại hình nghệ thuật truyền thống. Đến nay nghệ thuật múa
rối Việt Nam đã đạt đến trình độ nghệ thuật có gia trị cao về tinh thần,
là một trong những loại hình sân khấu giải trí hấp dẫn trong đời sống
văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam. Nghệ thuật múa rối dân gian
Việt Nam xuất hiện từ thời cổ đại cùng với Nhà nước văn minh – Nghệ
thuật thời Hùng Vương gắn liền với tập tục nghi lễ, hội hè Việt cổ
cách đây hơn 2000 năm.
Bia “Sùng Thiện Diên linh tự tháp”
Nhưng thực tế cho thấy múa rối tồn tại ở Việt Nam cho đến nay trên dưới
1000 năm, nó phát triển mạnh nhất vào thời Lý – Trần (thế kỷ XI – XII).
Hiện vẫn chưa có một tư liệu nào chứng minh được nguồn gốc xuất xứ ra
đời của nghệ thuật múa rối. Duy nhất hiện còn lưu trên Bia “Sùng Thiện
Diên linh tự tháp” có niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121) thời Lý
Nhân Tông, có ghi trò múa rối nước biểu diễn mừng thọ Nhà vua. Điều đó
chứng tỏ rằng nghệ thuật múa rối dân gian Việt Nam đã được hình thành từ
bao đời nay, được lưu truyền tồn tại và ngày càng phát triển với nhiều
thể loại như: Rối tay, rối que, rối dây, rối nhà mồ,rối mặt nạ,rối diều
sáo, rối đồ chơi, rối sao, rối bóng,… đặc biệt là múa rối nước. Nội dung
trong tích, trò, vở diễn mang tính chất mua vui, giải trí, gây cười,
hóm hỉnh, hài hước, châm biếm,… Hoạt động của múa rối dân gian Việt Nam,
gắn liền với tín ngưỡng làng xã, một mặt để lễ bái thờ cúng thần linh
– Thần Thành Hoàng mặt khác để góp vui cho khách trảy hội,…Những người
tham gia trong phường rối là các nghệ nhân nghiệp dư, họ là những nông
dân, thợ thủ công vào thời vụ thì cấy cày, làm đủ nghề kiếm sống, lúc
nông nhàn thì tham gia các sinh hoạt nghệ thuật, mỗi phường có một người
đứng đầu gọi là ông Trùm. Ông Trùm tụ tập mọi người (họ là những người
tình nguyện) cùng trao đổi, sáng tác và tập luyện các tiết mục, thống
nhất biểu diễn một số trò,tích theo yêu cầu. Đó là những Phường rối,
gánh rối dân gian được nhân dân thành lập và trân trọng gìn giữ lưu
truyền đến ngày nay. Tiếp thu vốn nghệ thuật truyền thống, những người
hoạt động trong lĩnh vực này đã dành tâm sức, đầu tư, để phát triển hơn
lên nhưng không mất đi cái gốc truyền thống dân tộc.
Nghệ thuật Múa rối dân gian Việt Nam có: Múa rối cạn và múa rối nước.
a. Múa rối cạn:
Nghệ thuật rối cạn dân gian truyền thống
phát triển rộng khắp cả nước với nhiều tên gọi: Miền Bắc: ổi, Lỗi, ổi
lỗi, Khối lỗi, Rối, Múa rối, Trò, Trò máy,… (Việt): Mộc thầu hí (Nùng),
Slương pấtlạp (Tày), Mụa rội (Mường),… Miền Nam: Hát gỗ, Hát hình, …
Múa rối cạn có nhiều thể loại khác nhau
như: Rối tay, rối que, rối dây, rối bóng, rối mặt nạ, rối nhà mồ, rối
lốt,… phần lớn các tích trò thường sử dụng các làn điệu chèo,ca
trù, tuồng, nhạc cung đình,… để dẫn trò, hát đế và biểu diễn
– Rối tay: Ít dùng trên sân khấu,
còn gặp nhiều trong trò nghi lễ chùa chiền. Rối tay thường được chế tạo
đầu bằng gỗ, mình khâu vải (không tay), khi điều khiển nghệ nhân lồng
bàn tay vào trong lòng khoét rỗng của đầu hoặc cầm một đoạn cán nối dài
cổ.
– Rối que: Rất phổ biến, nhỏ cỡ
30-35 cm. Đầu tạc liền với mình bằng gỗ, gồm cả tóc, tai, khăn, mũ, bàn
tay bằng gỗ gọt liền cổ tay hoặc rời. Điều khiển bằng que tre, que sắt
cắm vào mình và cổ tay luồn trong áo. Không có chân, cần tạc thêm đính
ngoài. Cũng có nơi, có quân tạo hình cỡ lớn, kiểu hình nhân, đầu mình
đan bằng nan dùng diễn thờ, xong đem đốt. Đặc biệt đồng bào Bana tạc
hình nhân khá lớn bằng gỗ dùng trong lễ bỏ mả và sau lễ bỏ lại trong nhà
mồ.Trên sân khấu, nhiều quân rối dùng thêm dây mềm điều khiển phối hợp
với rối que.
– Rối máy: Rất thông dụng cả
trong đồ chơi, trò chơi và sân khấu. Toàn thân được tạc bằng gỗ riêng
từng bộ phận, nối với nhau bằng khớp lỏng. Thường dùng sơn vẽ mầu thay
trang phục vải. Điều khiển bằng que, dây. Nhiều quân là trò riêng. Dùng
xen với rối tay, rối que. Chuyên dùng trong rối nước, đồ chơi trẻ em,
rối diều, rối gió, rối pháo
– Rối dây : Chỉ thấy
xuất hiện ở vùng biên giới Cao Bằng với tên Mộc thầu hí, Slương pấtlạp,
đầu rối bằng gỗ, mình nan đan, bàn tay gỗ, bàn máy điều khiển bằng tre,
dây tơ, dây gai mềm, không có chân. Rối dùng để diễn trò và tích trò.
Sân khấu thường dựng trên chòi làm sẵn ở các chợ, sòng bạc, …
– Rối bóng: Mới phát hiện, xưa có ở tỉnh Kiên giang, có thể từ Campuchia truyền sang. Nay không còn.
– Rối mặt nạ: Mặt nạ
được làm bằng giấy bồi, xốp, gỗ… được sơn vẽ theo tạo hình nhân vật, khi
diễn có thể dùng tay điều khiển, hoặc đeo lên đầu người diễn.
– Rối lốt: Mới xuất hiện ở Việt Nam những năm gần đây, thường là người mặc lốt nhân vật để biểu diễn.
Ở Việt Nam, nhân vật trên sân khấu rối
rất phong phú, là những nhân vật trong các truyện cổ tích , thần thoại
như Lý Thông, Thạch Sanh, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, Phù Đổng, … đến các nhân
vật hiện đại như Cu Tý, bé Rồng, Anh bộ đội kéo pháo,… Hơn nữa trên
sân khấu múa rối những loài động vật, cây cối, nhà cửa, vật dụng… đều có
thể trở thành nhân vật có đời sống sinh động và phong phú. Có thể nói
sân khấu rối “chấp nhận” mọi sự tưởng tượng phong phú. Các con rối đã
biến sự tưởng tượng thành “hiện thực”, không có biên giới ngăn cách cái
thật và cái giả, … vì vậy, có nhiều nhà nghiên cứu đã gọi sân khấu rối
là “Thế giới tuyệt đẹp của tuổi thơ”.
b. Múa rối nước:
Múa rối nước là một trong những loại
hình sân khấu tiêu biểu cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam – Thể hiện
trí
tuệ và sự thông minh, sức sáng tạo của con người Việt Nam.Trong xã hội
hiện đại hôm nay, múa rối nước không còn quá xa lạ với quảng đại
quần chúng trong nước và trên thế giới. Có lẽ thời gian là một trong
những nhân tố giúp múa rối nước định hình, khẳng định và phát triển,
được xếp hạng là một trong những loại hình nghệ thuật có giá trị cao,
mang tính truyền thống trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân Việt Nam.
Thực tế cho thấy, do điều kiện tự nhiên
và công việc của nhà nông, có thể nói rằng: Múa rối nước được xây đắp
hình thành từ tâm tư, tình cảm của người dân lao động, nó tái hiện cuộc
sống và ước vọng của thời đại.Trước kia rối nước chỉ diễn ngoài trời,
sân khấu gắn bó, hòa quyện với thiên nhiên, trong không gian mênh mông,
trời, đất và nước có cây xanh, mây, gió, lửa, có khói mờ vương tỏa, ẩn
hiện mái đình uốn cong và màu ngói đỏ, quả là một sự hòa quyện độc đáo
giữa thiên nhiên và con người. Ngày nay, múa rối nước Việt Nam, không
chỉ bảo tồn mà đã được khai thác sâu, rộng hơn. Hiện nay, cả nước có
18 phường rối nghiệp dư và 5 Nhà hát, đoàn múa rối chuyên nghiệp.Hoạt
động của các phường rối phần lớn vẫn theo hình thức phục vụ hội hè,
đình đám…,các thành viên tham gia chủ yếu là nông dân trong làng, xã. Có
phường các thành viên là ông bà, cha mẹ, vợ chồng con cái dâu rể cùng
trong một gia đình.
Trong những năm gần đây, múa rối Việt
Nam đã mạnh dạn thể nghiệm một số vở diễn với hình thức kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, để đáp ứng và phù hợp với tiến trình phát
triển xã hội hóa đất nước. Với vị thế hiện nay, múa rối nước Việt Nam
được xếp vào hạng là nghệ thuật độc đáo của Văn hóa dân tộc.
– Rối nước là đặc sản văn hóa Việt
– Rối nước là “đặc sản văn hoá” của cư dân trồng lúa nước Việt Nam.
– Rối nước hình thành với hai thành tố cơ bản: rối và nước.
Nếu rối là công trình của nghệ thuật tạc
tượng gỗ dân gian thì nước là một yếu tố quan trọng hàng đầu của nghề
trồng lúa nước (nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống). Một minh chứng
rõ rệt của cái nôi sinh thành nghệ thuật rối nước là sự tập trung hầu
hết cơ sở rối nước cổ truyền quanh Kinh đô Thăng Long xưa (Thủ đô Hà Nội
ngày nay), trung tâm của vùng đồng bằng Bắc Bộ phì nhiêu, chiếc nôi của
nền văn minh cổ của dân tộc Việt Nam, được đan xen bằng một mạng lưới
sông ngòi chằng chịt, gắn liền với nạn lũ lụt chu kỳ hàng năm. Rối nước
có thể manh nha từ trong công cuộc chế ngự cái tai hoạ thường đe dọa
cuộc sống của cư dân . Nước – tai họa số một trong bốn tai họa Thủy, hoả
, đạo, tặc . Nước -phục vụ sản xuất ra lúa gạo…
Văn hoá Việt Nam mang cội nguồn và bản
sắc của một nền sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là lúa nước. Tác dụng tổng
hòa của người – trời – đất đã tạo nên nền nông nghiệp với những cộng
đồng định cư thành làng xã từ hàng nghìn năm trước. Cư dân này đã
từ trồng lúa nước, tạo nên nền văn minh trồng lúa nước: nền văn minh
sông Hồng; nền văn minh Việt Nam cổ xưa này đã tạo nên thế quân bình bền
vững của nền văn hoá xóm làng, giữa con người với tự nhiên. Kỹ thuật sử
dụng trong nghề trồng lúa nước và các ngành nghề phụ quanh nó, một phần
văn hoá nối liền con người với tự nhiên đã góp phần chủ yếu vào sự hình
thành nghệ thuật rối nước.Dùng nước làm sâu khấu cho quân rối hoạt động
là đặc điểm độc đáo của nghệ thuật rối nước. Nước không chỉ là nơi quân
rối làm trò đóng kịch mà còn là yếu tốc cộng minh, cộng sinh, cộng
hưởng. Nước vừa cản trở vừa hỗ trợ, phối với với quân rối. Nước không
chỉ là môi trường, là khung cảnh mà còn như “thầy phù thuỷ” có nhiều
phép thần thông biến hoá đối với nghệ thuật biểu diễn rối.
Quân rối nước chỉ là những công trình
điêu khắc gỗ sơ sài, thô thiển, đường nét cứng, màu sắc nghèo, cử động
gấp khúc, vừa đủ gợi cho người xem nhận thức khái quát về người, về vật,
… Nhưng nước đã dùng đặc tính lỏng và phản quang của mình tạo nên sự ảo
hoá hiện tượng. Sân khấu rối nước luôn đầy ắp sắc hình trời, mây, cây,
cảnh… chuyển đổi khôn lường in trên mặt nước làm nền cho nhân vật “rối”
hoạt động. Trên “chiếc gương” này, tất cả đều lung linh, mềm mại, uyển
chuyển, biến hoá liên tục trước mắt người xem. Những gì là thô cứng,
nghèo nàn của đường nét, màu sắc, cử động ở quân rối đều trở nên sinh
động, phong phú.
Nước ẩn giấu trong lòng tất cả mọi bí
mật của trò rối. Người xem trên bờ thấy quân rồi chợt hiện, chợt
ẩn,tiếng trống, tiếng pháo,…lúc mềm mại, dịu dàng, uốn lượn… Xem rối
nước là ngồi ngoài trời, trực tiếp với thiên nhiên. ở đây tất cả đều
thực, giác quan con người đều có thể cảm thụ được. Nhưng chính giữa
những cái quá quen này, trò rối biểu hiện cho tài năng sáng tạo , ngợi
ca sự chiến thắng thiên nhiên của con người,…
Rối nước vừa thực vừa hư, vừa sân khấu
vừa cuộc đời, gắn bó với nhân dân Việt Nam như cây đa, bến nước, lời ru,
cánh cò,… Sân khấu rối nước là sân khấu hội hè, lưu giữ nhiều sáng tạo
nghệ thuật dân gian, kỹ thuật cổ xưa và nhiều sinh hoạt tinh thần, tập
tục, lao động vật chất của cư dân trồng lúa nước Việt Nam trong quá
trình dựng nước và giữ nước từ hàng nghìn năm nay.
Chương trình tiết mục rối nước khá phong phú :
– Các trò ca ngợi cái thú làm ruộng, chăn vịt, đánh cá, dệt cửi, xay lúa, giã gạo ….
– Các trò vui chơi giải trí lành mạnh bổ ích như đấu vật, đưa ngựa, đánh đu, leo cây, lộn thang, múa lân, múa rồng, đánh kiếm…
– Các tích trò nêu gương anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê
– Các vở chèo,vở tuồng như Thị Mầu lên chùa, Lưu- Nguyễn nhập Thiên thai, Tây du, Sơn Hậu, Tam quốc …
Tiết mục rối nước ngắn gọn, phản ánh một cách ước lệ nhưng chân thực cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu của người Việt
Trò xưa thường diễn không lời, khi nền văn học dân tộc phát triển đã đem đến cho các tiết mục rối nước thêm lời giáo, lời hát.
Quân rối nước được tạo hình bằng loại gỗ
nhẹ, dai thớ như cây sung, vông … vốn rất sẵn quanh các bờ ao và sơn
bằng nhựa cây sơn (rahus succédanéa) chuyên dùng sơn thuyền được trồng
nhiều ở vùng trung du phía Bắc. Quân rối điều khiển từ xa bằng hai loại
máy: dây và sào với các bàn máy đơn giản hay phức hợp, các hệ thống cọc,
các dây lớn dây nhỏ, dây cứng dây mềm, các sào gỗ, sào tre…
Nghệ nhân rối nước phải đứng ngâm nửa
mình trong bùn nước sau mành của buồng trò điều khiển quân rối… Xưa rối
nước thường diễn ban ngày và chủ yếu với nhạc gõ như trống, mõ, phèng
la, não bạt, … và các âm thanh mạnh như pháo, ốc, tù. Lời giáo, lời trò
đều lấy từ ca dao, dân ca,… hay trích trong các vở kịch hát dân tộc. Sân
khấu rối nước gọi là Thủy đình , được dựng ngoài trời, gồm:
– Một: Buồng trò – dựng giữa ao, hồ, che kín, có mành treo cửa trước che nghệ nhân đứng sau điều khiển.
– Hai: Sân khấu – khoảng mặt nước trước
mành dài rộng 4m x 4m, hai bên có lan can thấp kéo từ hai nhà nanh hai
bên, nơi quân rối hoạt động.
– Ba: Nơi người xem – khoảng bờ, bãi, sân trước và hai bên sân khấu dưới bóng cây trồng quanh ao, hồ…
Thủy đình rối nước là phần địa điểm chủ
yếu của ngày hội, trong khu vực diễn ra các trò vui như đánh vật, chọi
gà,… nơi trưng bày nghi tiết hội (cờ, lọng, tàn, quạt, trống, chiêng,
phướn, nêu, đèn,…), nên người xem rối nước đắm mình trong không khí náo
nức, rộn rã, tưng bừng, … và quang cảnh rực rỡ, mời gọi, … của hội
hè…. Chứng cứ bằng văn tự đầu tiên ghi chép về múa rối nước Việt Nam mà
chúng ta đọc được là bia tháp Sùng Thiện Diên Linh dựng năm 1122 (tương
đương với thời Tống, Trung Quốc) trong đó, có đoạn viết về Kim Ngao,”ở
giữa sóng, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội rù rờ trên
mặt nước, lộ vân trên vỏ và rè bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên bờ, miệng
thì phun nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua mà cúi đầu
chào…” (Dẫn theo Hoàng Xuân Hân – Lý Thường Kiệt, tập II)
Chúng ta đều biết các vua nhà Lý rất
sùng Phật và ưa thích điềm lạ, đặc biệt là những chuyện rồng lên, rồng
hiện, rồng ấp, rồng nằm. Niên hiệu của các vua Lý cũng vương vấn
ít nhiều đến con rồng : Long Thụy Thái Bình, Long Chương thiên tự, Long
Phù Nguyên Hoá, Chính Long Bảo ứng, Trị Bình Long ứng … Thậm chí vào đời
Lý Thánh Tông, có người dâng voi trắng, nhà vua bèn đổi niên hiệu là
Thiên huống bảo tượng (trời cho voi báu). Từ năm 1010 đến năm 1225
triều Lý, rất nhiều lần các quan và trăm họ tiến dâng lên các loại rùa
ba chân, sáu mặt, rùa năm sắc, rùa trắng … Lại có cả những con rùa trên
mai có chữ như : Thiên thư họ thị thánh nhân vạn tuế, Nhất thiên vĩnh
thánh, Vương dĩ công pháp, Vương dĩ bột phương, Thiên tử vạn niên … vậy
mà các vua Lý vẫn chẳng lấy thế làm điềm lạ, vẫn chỉ xếp các loại rùa ấy
vào hạng tầm thường như chim sẻ trắng, hươu trắng, hươu đen, trâu thay
rằng, nhựa nhiều cựa …
Trong khi các vua quý trọng rồng thì dân
gian lại yêu thích rùa. Vì trong tâm thức nhân dân, còn rùa tuy chậm
chạp nhưng gan góc, ở nước cũng được, ở cạn cũng được, chịu được đói,
chịu được khát, có thể mang trên mình được sức nặng lớn, lại sống lâu.
Rùa vàng (Kim Quy) lại mang trong mình
nó lời phán truyền của thần linh về lịch số :”Thời Đào Đường, nước Việt
thường dâng con thần Quy nghìn tuổi, trên lưng có nét chữ khoa đẩu, ghi
chép từ thời mở đóng (vũ trụ hình thành) đến nay, vua liền sai chép lấy,
gọi là lịch rùa” (Từ Hải, mục từ Quy lịch)
Đào Đường (2357 – 2258 TCN) là thời
Nghiêu Thuấn, Việt Thường là một bộ nằm trong nước Văn lang thời cổ đại.
Khoa đầu nghĩa đen là con nòng nọc, chữ khoa đẩu là loại chữ đơn giản
rất xưa, lúc đầu dùng để ghi ngày, về sau, dùng ghi năm và tính lịch.
Những điều ghi chép trên chứng tỏ rằng thời xa xưa, trong các loại vật
thường gặp, con rùa vàng đã được nhân dân ta nâng lên hàng linh vật ,
nó luôn gắn bó với con người và dần dần trở thành thần bảo vệ của đất
nước (xem chuyện An Dương Vương xây thành ốc và Triệu Quang Phục làm mũ
đậu mâu). Rùa trở thành Thanh Giang thần (lễ hội làng Nhội, Thụy Lôi,
Đông Anh, hàng năm vẫn có lệ rước thần này). Con rùa vàng được miêu tả
trong bia tháp Sùng thiên điện linh chính là hình tượng rùa vàng còn
soát lại sau hơn một nghìn năm là bạn và là thần linh của dân Việt. Khi
nhà Lý lên, sùng bái rồng, thì dân ta đem hình thức nghệ thuật có sẵn
ra mừng vua mới theo tinh thần “có gì vui nấy”, chưa đưa ngay hình tượng
rồng vào hầu vua được. Các vị vua mê đắm con rồng này, cũng chấp nhận
được một dâu hiệu của lòng thành kính. Sự có mặt của rồng vàng trong
múa rối nước thời ấy là một bằng cớ chứng tỏ rằng hình thức nghệ thuật
này có thể xuất hiện từ rất lâu rồi. Trong ba dạng hoạt động trên, quân
rối mới chỉ làm trò, nặng về giải trí – vui chơi. Ở đây các nghệ nhân
rối đã tận dụng con diều, cây pháo… diễn trò rối trong phạm vi hạn
chế. Dạng sân khấu mới là nơi tung hoành rộng rãi của sự nỗ lực, sáng
tạo rối.
Rối nước có mặt ở hầu khắp các tỉnh
thành vùng đồng bằng và trung du sông Hồng, gắn bó mật thiết với đời
sống vật chất và tinh thần của cư dân trồng lúa nước. Xưa nay, cứ mỗi
khi trong các nhà thuỷ đình (hay buồng trò) rối nước giữa các ao hồ phát
ra tiếng trống, tiếng pháo, … báo hiệu có buổi biểu diễn là người lớn –
trẻ em, ông già – bà lão, trai thôn Thượng – gái thôn Đoài nô nức trẩy
về thưởng thức cái hay, cái lạ của trò rối nước .
Ở Việt Nam rối nước là loại múa rối độc
đáo đã có ngót 1000 năm ; sân khấu là các ao hồ đầy nước, con rối làm
bằng gỗ nhẹ, được điều khiển từ các buồng ngay cạnh sân khấu bằng các bộ
dây và sào dấu ngầm dưới nước. Người điều khiển phải ngâm mình dưới
nước để điều khiển. Vì sân khấu là mặt nước lại được ngăn cách với buồng
điều khiển bằng một bức màn mỏng, cho nên người xem không thể thấy
người điều khiển, mà chỉ thấy các con rối đang biểu diễn. Cái độc đáo
của sân khấu rối nước là con rối cử động được không chỉ nhờ những bộ
dây, sào, mà còn nhờ sức nước tác động và thông qua các bánh lái và phao
để được lắp đặt trong “bộ máy” điều khiển các con rối.Trong nghệ thuật
múa rối, nghệ thuật tạo hình là nghệ thuật chủ chốt. Vẻ mặt, hình dạng
và y phục của con rối biểu hiện cá tính, đồng thời nó thể hiện cả giới
tính, lứa tuổi, hạng người nào trong xã hội, v.v….
Những hành động của con rối không phải
hoàn toàn do người điều khiển muốn làm là được mà chủ yêú phải được kỹ
thuật tạo hình quyết định trước. Nhiều khi ý đồ của tác giả và đạo diễn
được thông qua tài năng của họa sĩ tạo hình và người làm con rối mới dẫn
đến hiệu quả biểu diễn. Ví dụ : Khả năng của con rối không thể hiện
được sự thay đổi nét mặt mà luôn luôn cố định, tác động của nó chậm
chạp, không tự nhiên vì vậy phải tạo cho con rối có cái “duyên” riêng và
làm sao thể hiện được trong tạo hình bộ măt có tính điển hình nhất của
cá tính nhân vật. Nhân vật chú Tễu trong nghệ thuật rối Việt Nam có hình
dáng béo tròn, phốp pháp, vận khố, mặc áo phong phanh, cổ đeo khánh
bạc, tóc để trái đào, nụ cười luôn nở trên môi duyên dáng, lạc quan có
lúc như châm chọc, có lúc như cảm thông …
Với cách tạo hình, trang trí như vậy chú
Tễu là nhân vật gần như nhân vật hề chèo ở sân khấu rối, chú Tễu cũng
dùng tiếng cười để nhận thức cuộc sống, đả kích và trào lộng những điều
chướng tai gai mắt …. Đây là sáng tạo tuyệt vời của các nghệ nhân dân
gian trong các phường rối, nó là sự gia công không chỉ của các ông thợ,
mà tập thể các nghệ nhân điêu khắc, sơn màu đến những người điều khiển …
Nhờ vậy mà loại nhân vật này xuất hiện đã khắc hoạ được nét điển hình
nhất của các vai “Hề” trong đời sống, để lại ấn tượng sâu sắc cho người
xem.
Do đặc điểm của mỗi dân tộc , múa rối là
sân khấu của những con rối không biết cử động, chỉ là công cụ nghệ
thuật của nghệ sĩ múa rối, cho nên trong việc tạo nên nhân vật, sân khấu
múa rối thiên về khắc hoạ ngoại hình, thể hiện các cử chỉ, mình động mà
ít dừng lại ở diễn biến tâm lý, mổ xẻ nội tâm. Và các nhân vật thường
không xây dựng một cách hoàn cảnh, đa dạng về lai lịch, quá trình phát
triển cũng như kết thúc cuộc đời. Trong một vở diễn, nhân vật xuất hiện
không nhiều . Câu chuyện thường phát triển quanh các nhân vật chính. Vì
vậy, những nhân vật chính này có vai trò quan trọng trong việc truyền
đạt nội dung tác phẩm …
Mời bạn đọc tìm hiểu thêm về các Trò chơi, múa, hội diễn và sân khấu dân gian Việt Nam tại đây:
Chủ Nhật, 23 tháng 7, 2017
Emotional facial expression analysis in the time domain
Emotions have been studied for a long time and results show that they
play an important role in human cognitive functions. In fact, emotions
play an extremely important role during the communication between
people. And the human face is the most communicative part of the body
for expressing emotions; it is recognized that a link exists between
facial activity and emotional states. In order to make computer
applications more believable and friendly, giving them the ability to
recognize and/or express emotions are research fields which have been
much focused on. Being able to perform these tasks, firstly, we need to
have knowledge about the relationship between emotion and facial
activity. Up to now, there have been proposed researches on this
relationship. However, almost all these researches focused on analyzing
the relationship without taking into account time factors. They analyzed
the relationship but did not examined it in the time domain. In this
paper, we propose a work on analyzing the relationship between emotions
and facial activity in the time domain. Our goal is finding the temporal
patterns of facial activity of six basic emotions (happy, sad, angry,
fear, surprise, disgust). To perform this task, we analyzed a
spontaneous video database in order to consider how facial activities
which are related to the six basic emotions happen temporally. From
there, we bring out the general temporal patterns for facial expressions
of each of the six emotions.
Advances in Intelligent Systems and Computing, Volume 326, 2015, Pages
487-498
6th International Conference on Knowledge and Systems Engineering, KSE
2014; Hanoi; Viet Nam; 9 October 2014 through 11 October 2014; Code
110309
Thứ Năm, 20 tháng 7, 2017
HOẠT ĐỘNG DẠY NGHỀ CHO TRẺ KHUYẾT TẬT TẠI TRƯỜNG DẠY NGHỀ TRẺ KHUYẾT TẬT HUYỆN THANH TRÌ
Nghiên cứu về hoạt động dạy nghề cho TKT để hiểu được thực trạng hoạt động dạy nghề của TKT tại Trường dạy TKT huyện Thanh Trì, để làm rõ kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt động dạy nghề, chỉ ra được vai trò của NV CTXH trong nâng cao chất lượng hoạt động dạy nghề cho TKT tại Trường dạy TKT huyện Thanh Trì, từ đó đề xuất một số khuyến nghị về giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động dạy nghề cho TKT tại Trường dạy TKT huyện Thanh Trì.
Authors:
Hồ, Thị Tuyết Mai | |
Issue Date: | 2016 |
Publisher: | Đại học Quốc gia Hà Nội |
Description: | 114 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/23140 |
Thứ Ba, 18 tháng 7, 2017
Tác động của nền kinh tế thị trường đối với quan hệ giữa con người và tự nhiên
Dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội của Đảng như: Đại hội lần thứ VIII, IX, X, nền kinh tế của đất nước đã thực sự có sự chuyển mình từ cơ chế kinh tế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa đất nước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của khoa học, công nghệ, của tri thức, bắt kịp với xu thế của thời đại mới.
Trong sự phát triển rất mạnh mẽ ấy của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có một nhân tố vô cùng quan trọng, nó là “hạt nhân” của sự phát triển, nhân tố đó là con người và tự nhiên. Tự nhiên và con người là hai hệ thống tương đối độc lập, xong nó có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau; Tự nhiên cần đến con người để ngày càng được cải tạo và phát triển, để tự nhiên “ban tặng” những món quà cho con người và con người cũng rất cần đến tự nhiên như một “lẽ tự nhiên” để tồn tại, duy trì và phát triển.
Trong sự phát triển rất mạnh mẽ ấy của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có một nhân tố vô cùng quan trọng, nó là “hạt nhân” của sự phát triển, nhân tố đó là con người và tự nhiên. Tự nhiên và con người là hai hệ thống tương đối độc lập, xong nó có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau; Tự nhiên cần đến con người để ngày càng được cải tạo và phát triển, để tự nhiên “ban tặng” những món quà cho con người và con người cũng rất cần đến tự nhiên như một “lẽ tự nhiên” để tồn tại, duy trì và phát triển.
Nhưng vấn đề nan giải ở chỗ, kinh tế thị trường phát triển như thế nào để không gây ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên? Cần có biện pháp đặt ra và giải quyết như thế nào cho đúng, kịp thời? đây là câu hỏi lớn đặt ra những nhà nghiên cứu cả về lý luận lẫn thực tiễn. Chủ trương của Đảng về sự chuyển dịch nền kinh tế đã làm cho nền kinh tế nước ta có sức sống mới, có sự phát triển sôi động. Những tiềm năng về con người và tự nhiên của đất nước được phát huy một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường cũng bộc lộ những mặt trái của nó, đó là nếu không có sự điều tiết một cách đúng đắn sẽ tác động xấu đến tự nhiên, huỷ hoại môi trường sống của con người. Điều đó lại ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu sự tác động của kinh tế thị trường như thế nào đến mối quan hệ giữa con người và tự nhiên lại vừa đảm bảo sự phát triển kinh tế, giữ gìn môi trường sống cho con người. Theo tác giả đây là vấn đề khó nhưng rất cần hiện nay, nhất là đối với các nước đang phát triển như ở nước ta. Vì vậy tác giả chọn đề tài: "Tác động của nền kinh tế thị trường đối với quan hệ giữa con người và tự nhiên" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
Authors:
Trần, Thị Nhung | |
Keywords: | Con người Nền kinh tế thị trường Triết học Mác-Lênin Tự nhiên |
Issue Date: | 2008 |
Publisher: | Đại học Quốc gia Hà Nội |
Citation: | 94 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17505 |
Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017
Văn học Đàng Trong thế kỷ XII – XVIII trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc
Luận án góp phần nhận diện lại một lần nữa các yếu tố đặc trưng của văn học Đàng Trong trên tiến trình vận động của văn học sử. Dựa trên những kết quả thu được từ việc so sánh với văn học Đàng Ngoài đương thời, luận án góp phần nhận diện những dấu hiệu biệt sắc của văn học vùng.
Đồng thời xác lập vai trò, vị trí của văn học Đàng Trong, cũng như vai trò của những cá nhân tiêu biểu trên tiến trình phát triển văn học viết dân tộc.Nhận diện bản chất, cội nguồn của văn học Đàng Trong với tư cách là một thành tố văn hóa, một mặt chịu sự tác động và là hệ quả của những động thái văn hóa đặc thù, mặt khác tác động ngược trở lại, tạo nên sự sinh động cho không gian văn hóa vùng.
Đồng thời xác lập vai trò, vị trí của văn học Đàng Trong, cũng như vai trò của những cá nhân tiêu biểu trên tiến trình phát triển văn học viết dân tộc.Nhận diện bản chất, cội nguồn của văn học Đàng Trong với tư cách là một thành tố văn hóa, một mặt chịu sự tác động và là hệ quả của những động thái văn hóa đặc thù, mặt khác tác động ngược trở lại, tạo nên sự sinh động cho không gian văn hóa vùng.
Authors:
Trần, Thanh Thủy | |
Keywords: | Văn học Việt Nam Lịch sử và phê bình |
Issue Date: | 2017 |
Publisher: | H.: ĐHKHXH&NV |
Description: | 157 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/33576 |
Thứ Năm, 13 tháng 7, 2017
Một số giải pháp phát triển du lịch cộng đồng tại khu du lịch sinh thái Tràng An tỉnh Ninh Bình
Đề tài góp phần vào việc định hướng và đưa ra các giải pháp phát triển
du lịch cộng đồng, bảo tồn văn hóa bản địa, giảm áp lực tới môi trường
và tài nguyên du lịch, nâng cao thu nhập cho cộng đồng địa phương, thúc
đẩy người dân tham gia vào việc bảo tồn tài nguyên du tỉnh Ninh Bình nói
chung và hai xã: Trường Yên, Ninh Xuân (huyện Hoa Lư) nằm trong Khu du
lịch sinh thái Tràng An, tỉnh Ninh Bình nói riêng.
Authors:
Lê, Thanh Tú | |
Keywords: | Du lịch cộng đồng Ninh Bình Du lịch sinh thái |
Issue Date: | 2016 |
Publisher: | Đại học Quốc gia Hà Nội |
Citation: | 111 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19971 |
Thứ Tư, 12 tháng 7, 2017
Sáng tác văn học của Gia Định tam gia xã thời Nguyễn
Giới thiệu khái quát bối cảnh thời đại và thân thế, sự nghiệp của “Gia
Định tam gia” – ba văn sĩ tài hoa của đất Gia Định xưa là Trịnh Hoài
Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh. Trình bày các kết quả nghiên cứu về
“Gia Định tam gia” thông qua việc phân tích các tác phẩm văn học của
từng người, tìm hiểu các giá trị nội dung và nghệ thuật được các tác giả
gửi gắm trong đó, đặt các giá trị đó trong mối quan hệ với văn chương
hậu kì trung đại, bước đầu tìm hiểu quan niệm nghệ thuật cũng như phong
cách riêng của mỗi người, trong đó nêu bật khuynh hướng bình dân hóa và
khuynh hướng bộc lộ con người cá nhân trong sáng tác của ba tác gia này.
So sánh những điểm chung và điểm khác biệt giữa các tác gia nhằm mang
đến cho các nhà nghiên cứu và độc giả quan tâm một cái nhìn sâu hơn về
các trước tác của “Gia Định tam gia” cũng như ý nghĩa của mảng thơ văn
này đối với văn học dân tộc.
Authors:
URI:
Authors:
Phạm, Quỳnh An | |
Keywords: | Gia Định tam gia thi xã Nhà Nguyễn Phê bình văn học Văn học Việt Nam |
Issue Date: | 2008 |
Publisher: | Đại học Quốc gia Hà Nội |
Citation: | 114 tr. |
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17390 | |
Appears in Collections: | Luận văn - Luận án (LIC) |
Thứ Ba, 11 tháng 7, 2017
Biểu hiện của quan hệ quyền thế trong các diễn ngôn hội thoại (Khảo sát trên tư liệu một số truyện ngắn hiện đại)
Trình bày cơ sở lý thuyết về diễn ngôn, phân tích diễn ngôn, diễn ngôn
hội thoại, diễn ngôn phê phán. Qua khảo sát và nghiên cứu các cuộc thoại
được rút ra từ một số tác phẩm truyện ngắn hiện đại và trong diễn ngôn
hội thoại nói chung luận văn làm sáng tỏ những biểu hiện của quan hệ
quyền thế trong diễn ngôn hội thoại trên một số phương diện như từ vựng,
ngữ pháp và cách thức tổ chức hội thoại. Thông qua kết quả nghiên cứu,
đưa ra những kiến giải, những đề xuất, định hướng trong việc tạo lập và
nhận hiểu các diễn ngôn hội thoại trong các tác phẩm văn học hiện đại,
trong diễn ngôn hội thoại; giúp người tham gia giao tiếp lựa chọn những
chiến lược sử dụng ngôn ngữ hiệu quả nhất để xác lập hay thay đổi mối
quan hệ quyền thế với người đối thoại, từ đó duy trì và điều khiển cuộc
thoại để đạt tới mục đích giao tiếp cuối cùng.
Authors:
URI:
Authors:
Phạm, Thị Thu Trang | |
Keywords: | Phân tích diễn ngôn Ngôn ngữ học Diễn ngôn hội thoại |
Issue Date: | 2008 |
Publisher: | Đại học quốc gia Hà Nội |
Citation: | 111 tr. |
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17341 | |
Appears in Collections: | Luận văn - Luận án (LIC) |
Action research on applying the interactive approach to develop listening skills for second-year non-english major students at Hanoi University of Industry
Other Titles: | Nghiên cứu hành động về việc áp dụng phương pháp tương tác để nâng cao kỹ năng nghe cho sinh viên không chuyên tiếng Anh năm thứ hai trường Đại học Công nghiệp Hà Nội |
Authors: | NGUYỄN, THỊ THU HÀ |
Keywords: | Listening skills kỹ năng nghe Tiếng Anh Sinh viên |
Issue Date: | 2017 |
Publisher: | H. : ĐHQGHN |
Abstract: | This study aims at investigating the impact of interactive processing on second-year students’ listening skills at Hanoi University of Industry. More specifically, the researcher strives to (1) investigate problems that the students may encounter while learning listening, and (2) examine the effects of applying the interactive process in teaching listening to the second-year students. To achieve the above mentioned objectives, an action research is conducted with the participation of 42 second-year students of class E6.1_K9 within twelve weeks. A pre-test, a post-test and two questionnaires are used as instruments to collect data for analysis. The findings show that there are six problems that cause difficulties to students in listening. They are (i) lacking of vocabulary, (ii) structures of spoken language, (iii) speech rate, (iv) various and unfamiliar accents, (v) stress and intonation, (vi) lacking of background knowledge about the topic. After interactive processing has been applied, the students’ scores in the post-test are higher than in the pre-test. Overall, the instruction of interactive processing improves their listening skills. |
Description: | 65 p. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/54421 |
Appears in Collections: | ULIS - Master Theses |
Chủ Nhật, 9 tháng 7, 2017
Nghiên cứu thiết kế và chế tạo cảm biến tụ phẳng
Authors: | Nguyễn, Minh Ngọc |
Issue Date: | 2016 |
Publisher: | Đại học Quốc gia Hà Nội |
Citation: | 51 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17209 |
Appears in Collections: | Luận văn - Luận án (LIC) |
Tính cận trên bộ nhớ LOG của chương trình sử dụng giao dịch
Authors: | Nguyễn, Phan Tình |
Issue Date: | 2016 |
Publisher: | Đại học Quốc gia Hà Nội |
Citation: | 51 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17211 |
Appears in Collections: | Luận văn - Luận án (LIC) |
Thứ Sáu, 7 tháng 7, 2017
Tư tưởng của Khổng Tử về "nhân" qua mối quan hệ giữa "ái nhân" và "tri nhân"
Authors:
Nguyễn, Thị Lan | |
Keywords: | Khổng Tử Nho gia Triết học Trung quốc |
Issue Date: | 2009 |
Publisher: | Đại học Quốc gia Hà Nội |
Citation: | 90 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17521 |
Appears in Collections: | Luận văn - Luận án (LIC) |
Hợp tác văn hóa Việt Nam - ASEAN từ 1995 đến nay
Khái quát cơ sở hình thành văn hóa khu vực Đông Nam Á (ĐNA): văn hóa (VH) bản địa ĐNA, ảnh hưởng của VH Ấn Độ, Trung Quốc tới Việt Nam và ĐNA. Tìm hiểu một số vấn đề và nguyên tắc hợp tác VH Việt Nam - ASEAN từ năm 1995 đến nay. Nghiên cứu, phân tích những thành tựu và những hạn chế của quá trình hợp tác VH giữa Việt Nam – ASEAN sau hơn 10 năm thiết lập quan hệ. Đề xuất một số giải pháp như: đánh giá một cách có hệ thống những hoạt động hợp tác VH để rút kinh nghiệm, tổ chức ASEAN – COCI của Việt Nam cần hoạt động hiệu quả hơn chứ không nặng về hành chính như hiện nay; phổ biến rộng rãi các thông tin về VH các nước ASEAN trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là Đài truyền hình Việt Nam cần thực hiện một kênh thông tin chuyên phản ánh các hoạt động mang tính đời sống của người dân các nước ASEAN; tổ chức định kỳ các tour du lịch trên đường bộ kiểu như cuộc hành trình di sản qua các quốc gia ASEAN cho những đối tượng là thanh niên, đại diện cho các quốc gia ĐNA; ASEAN nói chung và Bộ giáo dục VN nói riêng nên cập nhật thông tin về đặc trưng văn hóa ASEAN vào sách giáo khoa từ các cấp học cơ sở ; cần quan tâm hơn tới những tác động của tiêu cực của VH ngoại lai khi thiết lập quan hệ hợp tác về VH.
Keywords:
ASEAN Hợp tác văn hóa Việt Nam Văn hóa | |
Issue Date: | 2008 |
Publisher: | Đại học Quốc gia Hà Nội |
Citation: | 75 tr. |
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17440 | |
Appears in Collections: | Luận văn - Luận án (LIC) |
Tư tưởng chỉ đạo và tổ chức thực hiện giành thắng lợi quyết định của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Trên cơ sở phân tích điều kiện khách quan và chủ quan trình bày bối cảnh lịch sử ra đời đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng ta. Phân tích những chủ trương, biện pháp, giành thắng lợi trong những năm chống "chiến tranh đặc biệt" (1961-1965); giành thắng lợi quân sự trong những năm (1965-1968) và sự chỉ đạo tiến lên giành thắng lợi quyết định trong những năm (1969-1973). Đánh giá những thắng lợi đã đạt được và rút ra một số kinh nghiệm: bám sát thực tiễn cách mạng, đề ra đường lối chiến lược đúng đắn; tuân thủ những nguyên tắc trong thực hành tư tưởng chiến lược tấn công; nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đánh lâu dài với tranh thủ thời cơ giành thắng lợi; đánh giá đúng kẻ thù, nắm vững mục tiêu cuối cùng của cách mạng; nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo quy luật chiến tranh cách mạng nhằm mang lại những đóng góp quan trọng trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay.
Authors:
Phạm, Thị Trọng Hiếu | |
Keywords: | Kháng chiến chống Mỹ Đảng Cộng sản Việt Nam Tư tưởng chỉ đạo |
Issue Date: | 2008 |
Publisher: | Đại học quốc gia Hà Nội |
Citation: | 208 tr. |
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17344 | |
Appears in Collections: | Luận văn - Luận án (LIC) |
Áp dụng pháp luật trong giải quyết án Hôn nhân và gia đình - Qua thực tiễn tòa án nhân dân thị xã Phổ Yên tỉnh Thái Nguyên
Authors: | Nguyễn, Thị Thu Hà |
Keywords: | Luật gia đình Luật và pháp chế Thái Nguyên |
Issue Date: | 2016 |
Publisher: | Đại học Quốc gia Hà Nội |
Citation: | 123 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/17205 |
Appears in Collections: | Luận văn - Luận án (LIC) |
Vai trò giám sát của Quốc hội trong ký kết và thực hiện điều ước quốc tế ở Việt Nam
Authors: | Chu, Thị Thanh Hương |
Keywords: | Luật quốc tế Điều ước quốc tế Luật và pháp chế |
Issue Date: | 2017 |
Publisher: | H. : Trường Đại học Kinh tế |
Description: | 116 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/34259 |
Appears in Collections: | Luận văn - Luận án (LIC) |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)